Nguyễn Trãi Quốc Âm Từ Điển
A Dictionary of 15th Century Ancient Vietnamese
Trần Trọng Dương.

Quốc Ngữ hoặc Hán-Nôm:

Phần giải nghĩa Dương Tử
quán khách 館客
dt. <Đạo> nhà trọ, dịch chữ nghịch lữ 逆旅. Sách Trang Tử có câu: “Dương Tử đến đất tống, vào nghỉ trong một nhà trọ.” (陽子之宋,宿於逆旅). Trang Tử thiên Tri bất du có câu: “buồn vui đến, ta chẳng thể kìm ngự được, vui buồn đi ta chẳng thể dừng được. Buồn thay! thế nhân thực là quán trọ của vật.” (哀樂之來,吾不能禦,其去弗能止。悲夫!世人直為物逆旅耳!) sách Liệt Tử thiên Trọng ni có đoạn: “Long Thúc nói với Văn Chí rằng: ‘thuật của ngài thực vi diệu. Ta có tật, ngài có thể chữa được chăng?’ Văn Chí rằng: ‘chỉ nên nghe theo mệnh mà thôi. Nhưng trước hết ngài hãy nói về cái bệnh của ngài’. Long Thúc rằng: ‘quê tôi có tiếng tăm nhưng chẳng coi đó là vẻ vang, nước tôi mất cũng chẳng coi đó là nhục; được mà chẳng vui, mất mà chẳng buồn; coi sống như chết, coi giàu như nghèo, coi người như lợn, coi mình như người. Ta ở trong nhà mình, cũng như ở nơi quán trọ; coi làng nước ta cũng như nước của dân mọi rợ. [lại thêm] những bệnh như vầy: tước thưởng chẳng thể khuyến khích ta, hình phạt chẳng thể làm uy với ta, thịnh suy lợi hại chẳng thể làm ta lay động, vui buồn chẳng thể làm ta chuyền rời’. Cho nên, ta chẳng thờ vua, chăng chơi bè bạn, chẳng rèn vợ con, chăng đe nô bộc. Đó chẳng phải là bệnh sao? cách gì có thể chữa được? Văn Chí bèn bảo Long Thúc đứng xây lưng về phía ánh sáng. Văn Chí lại từ phía sau nhìn ra phía ánh sáng, rồi nói rằng: ‘ôi! ta nhìn thấy tim ngài rồi, đó là tấc lòng trống rỗng, cơ hồ như lòng thánh nhân vậy! tim ngài sáu lỗ lưu thông, một lỗ cũng chẳng tắc. Nay ngài coi cái thánh trí là bệnh, là có cái nguyên do của nó vậy! cái thuật mọn của tôi chẳng thể chữa được đâu’.” (龍叔謂文摯曰:“子之術微矣。吾有疾,子能已乎?”文摯曰:“唯命所聽。然先言子所病之正。”龍叔曰:“吾鄉譽不以為榮,國毀不以為辱;得而不喜,失而弗憂;視生如死,視富如貧,視人如豕,視吾如人。處吾之家,如逆旅之舍;觀吾之鄉,如戎蠻之國。凡此眾疾,爵賞不能勸,弄罰不能威,盛衰利害不能易,哀樂不能移. 固不可事國君,交親友,御妻子,制仆隸。此奚疾哉?奚方能已之乎?”文摯乃命龍叔背明而立。文摯自後向明而望之,既而曰:“嘻!吾見子之心矣,方寸之地虛矣,幾聖人也!子心六孔流通,一孔不達。今以聖智為疾者,或由此乎!非吾淺術所能已也). Lý Bạch trong bài Xuân dạ yến đào viên tự có câu: phù thiên địa giả, vạn vật chi nghịch lữ (ôi trời đất là quán trọ của muôn vật vậy). Liều cửa nhà xem bằng quán khách, đam công danh đổi lấy cần câu. (Mạn thuật 30.3).
đúc 鑄
◎ Nôm: 篤 Đọc âm PHV. AHV: chúc. Đúc: đọc theo âm THV: *tjugh (Lý Phương Quế).
đgt. hun đúc, đào tạo. Thương nhẫn Biện Hoà ngồi ấp ngọc, đúc nên Nhan Tử tiếc chi vàng. (Tự thuật 117.4). đc.: Dương Hùng trong sách Dương Tử Pháp Ngôn có câu: “có người hỏi: ‘đời hay nói đúc vàng, vàng có thể đúc ư?’ trả lời: ‘ta chỉ nghe nói rằng, khi gặp bậc quân tử, chỉ có hỏi về việc đúc người thôi, chứ không hỏi về việc đúc vàng’. Người kia lại hỏi: ‘người mà cũng có thể đúc ư?’ trả lời: ‘thì đức Khổng Tử đúc được Nhan Uyên đó thôi’. Người ấy mới cung kính mà rằng: ‘thực là ý vị! hỏi về việc đúc vàng, mà lại hiểu thêm về việc đúc người’” (或問:“世言鑄金,金可鑄與?”曰:“吾聞覿君子者,問鑄人,不問鑄金。”或曰:“人可鑄與?”曰:“孔子鑄顏淵矣。”或人踧爾曰: “旨哉!問鑄金,得鑄人”). ở câu thơ này, Nguyễn Trãi chơi chữ. Chữ dùng của Dương Hùng trỏ nghĩa bóng. Chữ dùng của Nguyễn Trãi vừa mang nghĩa bóng như vậy là vừa dụng nghĩa Từ Nguyên cụ thể của từ đúc. Ý muốn nói: dẫu đúc được một người hiền như Nhan Uyên thì có đúc bằng vàng đi chăng nữa thì cũng không tiếc. (theo ĐDA).